Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó quan điểm thứ ba khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(1).
Để thực hiện quan điểm chỉ đạo nêu trên, Đại hội XIII của Đảng xác định ba đột phá chiến lược, trong đó đột phá chiến lược thứ hai là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2).
Đảng ta cũng xác định mục tiêu: xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức...
Đảng ta khẳng định xây dựng đội ngũ trí thức với quan điểm chỉ đạo:
1) Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
2) Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
3) Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.
Nhằm thực hiện những chủ trương, đường lối do Đại hội XIII của Đảng đề ra, phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp chấn hưng dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh, hùng cường, cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản, sau đây:
Thứ nhất, tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn phương hướng do Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đốì với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(3).
Thứ hai, tăng cường, nâng cao nhận thức về vai trò và phát triển đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN nhằm tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, tạo điều kiện triển khai có hiệu quả trong thực tiễn.
Việc phát huy vai trò và phát triển đội ngũ trí thức chất lượng cao, có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0); thúc đẩy mạnh mẽ năng lực đổi mới sáng tạo; có cơ chế đột phá để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài.
Do bối cảnh và tác động cuộc CMCN 4.0 đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, yêu cầu về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức phải thay đổi. Theo đó, đòi hỏi đội ngũ trí thức phải có nhiều kỹ năng mới, mà đổi mới, sáng tạo là yếu tố quyết định. Cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài cần được thực hiện căn cơ, bài bản.
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
Làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức; để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc, đoàn kết phấn đấu, lao động sáng tạo, hoàn thành tốt trọng trách trong thời kỳ mới. Hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”.
Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý là đảng viên và không phải là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp...
Trong quản lý và sử dụng trí thức, các cấp ủy đảng và chính quyền nghiên cứu, thực hiện các phương thức phù hợp, không áp dụng máy móc cách quản lý hành chính để phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức.
Những người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đốì với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc.
Phát triển đội ngũ trí Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quôc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ trí thức công nghệ kỹ thuật số, trí thức quản trị công nghệ, trí thức quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người... Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo...
Thứ tư, nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng đội ngũ trí thức theo hướng thực tài thay vì chỉ có các tiêu chí liên quan đến bằng cấp, chứng chỉ… như hiện nay.
Các tiêu chí đánh giá nên được xuất phát từ phía “cầu” (mức độ đáp ứng nhu cầu về lao động, việc làm, ví dụ: tỷ lệ có việc làm và việc làm phù hợp sau khi được cấp chứng chỉ, văn bằng; hiệu quả, hiệu suất, năng suất làm việc…).
Cần làm ngay hai việc chính: một là, áp dụng chế độ “chức nghiệp thực tài”. Điều này đòi hỏi đổi mới cách thức tuyển dụng, đánh giá, trả lương, khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm. Cách thức tiến hành: công khai, minh bạch, dân chủ. Các hình thức này về cơ bản đã được các nước tiên tiến áp dụng và rất có hiệu quả. Có thể nghiên cứu vận dụng ngay được. Hai là, đổi mới công tác đào tạo. Đây là một phần trong nội dung “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo” đang triển khai, nhưng cần ưu tiên. Hướng ưu tiên là đào tạo những kỹ năng mà thực tiễn đòi hỏi.
Cần tháo gỡ ngay các nút thắt trong xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, gồm:
Rà soát lại tất cả những văn bản pháp luật liên quan để loại bỏ những nội dung mâu thuẫn, xung đột khi triển khai thực hiện các chủ trương: khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Hiện vẫn còn nhiều vướng mắc trong chế độ thuế, ưu tiên cấp đất, tiền lương, chế độ tự chủ...
Tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức từ coi trọng bằng cấp sang đánh giá dựa trên năng lực của trí thức. Nâng cao ý thức tôn trọng và tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động phát minh/sáng chế, phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Thực hiện nguyên tắc giá cả sức lao động (tiền lương, tiền công) do thị trường quyết định và được phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo tài năng cống hiến. Đặc biệt là thực hiện một hệ thống phân phối tiền lương gắn với năng suất lao động, hiệu quả làm việc; thực hiện công bằng trong phân phối và khuyến khích, tôn vinh lao động sáng tạo, thúc đẩy phát triển trí thức trình độ cao, trọng dụng nhân tài. Đổi mới có tính cách mạng về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử dụng, đánh giá với đào tạo đội ngũ trí thức. Thay đổi quan niệm về “nhân tài” và có chế độ thu hút, đãi ngộ thỏa đáng. Hoàn thiện chính sách quản lý, tuyển dụng và sử dụng lao động, thu hút và giữ chân nhân tài, cũng như phương pháp đánh giá lao động trí tuệ. Theo đó, cần chú trọng phát triển văn hóa cơ quan, doanh nghiệp và hệ thống chỉ số đánh giá lao động; cũng như nghiên cứu và xây dựng các chính sách, chế độ thu hút và sử dụng nhân tài (bảo hiểm, tiền lương, chăm sóc gia đình, chế độ đào tạo,...).
Cần có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, các chuyên gia, nhà khoa học giỏi... Đãi ngộ, tôn vinh phải ở mức bằng hoặc cao hơn các chức danh lãnh đạo, quản lý để họ yên tâm cống hiến về chuyên môn mà không phải “buộc vào” hay “chạy vào” con đường “quan chức”...
Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về phát triển đội ngũ trí thức. Chủ động tham gia xây dựng, tiếp cận chuẩn đào tạo, tiêu chuẩn kỹ năng nghề, cũng như các thoả thuận công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực (ASEAN) và toàn cầu. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục - đào tạo, tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính,... để tăng thêm nguồn lực đầu tư cho phát triển đội ngũ trí thức.
Thứ năm, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.
Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau cho các lĩnh vực nói trên, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến.
Ban hành quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm của trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao, các tổng công trình sư trong điều hành chuyên môn, nghiệp vụ.
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3-2018) _Ảnh: qdnd.vn |
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng.
Nhà nước đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước.
Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ.
Thứ sáu, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
Ðổi mới công tác cán bộ của Ðảng và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức, khắc phục tình trạng hành chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý.
Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo điều kiện để trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước.
Thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ, các trường đại học trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học trên cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong việc sử dụng kinh phí, sử dụng trí thức đầu ngành theo nhu cầu của đơn vị, nghiên cứu ban hành quy định tuổi lao động cho phù hợp.
Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách để động viên và tiếp tục sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với những trí thức có trình độ cao, năng lực và sức khỏe đã hết tuổi lao động.
Có chính sách ưu đãi cụ thể về lương, điều kiện làm việc, sinh hoạt... đối với trí thức làm việc ở vùng kinh tế, xã hội khó khăn, trí thức là người dân tộc thiểu số, người khuyết tật...; đổi mới, nâng cao chất lượng xét chọn và nâng mức thưởng đối với các danh hiệu cao quý và các giải thưởng Nhà nước dành cho trí thức.
Xây dựng chính sách thu hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới... Trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.
Tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.
Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước.
Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Nghiên cứu, có quy định pháp lý (có thể quy định ngay trong Luật Giáo dục đại học) về việc gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, sự kết hợp này vừa có tác dụng phát huy năng lực của cán bộ giảng dạy, nhà khoa học, sinh viên trong các trường đại học theo hướng khuyến khích và gắn kết giữa các trường với thị trường khoa học và công nghệ (thông qua các sàn giao dịch công nghệ, đã được thành lập nhưng hiện tại hoạt động còn thiếu hiệu quả)...
Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết.
Trên cơ sở bảo đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước.
Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ.
Áp dụng chính sách định kỳ và cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ trí thức; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn.
Thứ tám, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.
Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.
Tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm đội ngũ trí thức trong rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống...
Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí.
Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận.
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học và nghệ thuật, trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức.
Tạo điều kiện để các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát hoạt động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính./.
PGS. TS. VŨ VĂN PHÚC
Phó chủ tịch HĐKH các cơ quan Đảng Trung ương
Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
________________________
(1) (2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.110, 203-204, 167.